Lịch sử và sự sụp đổ của che đậy: Tìm hiểu khái niệm pháp lý đã bao trùm danh tính phụ nữ
Coverture là một khái niệm pháp lý tồn tại ở nhiều khu vực pháp lý thông luật, bao gồm cả Anh và Hoa Kỳ, cho đến cuối thế kỷ 19. Người ta cho rằng khi một người phụ nữ kết hôn, danh tính của cô ấy được thay thế bởi danh tính của chồng cô ấy và cô ấy trở thành đối tượng chịu sự kiểm soát và quyền lực của anh ấy.
Dưới sự che đậy, một phụ nữ đã kết hôn không có sự tồn tại hợp pháp tách biệt với chồng mình. Cô không thể ký kết hợp đồng, kiện hoặc bị kiện, hoặc sở hữu tài sản dưới tên riêng của mình. Mọi quyền lợi, nghĩa vụ của bà đều gắn liền với địa vị và hành động của chồng. Điều này có nghĩa là nếu chồng cô qua đời, cô sẽ mất tất cả các quyền và sự bảo vệ hợp pháp của mình, đồng thời sẽ trở nên phụ thuộc vào gia đình chồng hoặc những người thân nam giới khác để được hỗ trợ.
Coverture dựa trên ý tưởng rằng phụ nữ thấp kém hơn nam giới và cần phải được như vậy. được chồng bảo vệ. Nó được sử dụng để biện minh cho một loạt các hành vi phân biệt đối xử, bao gồm việc từ chối quyền sở hữu tài sản đối với phụ nữ đã kết hôn, thiếu sự bảo vệ pháp lý đối với những người vợ bị đánh đập và loại trừ phụ nữ đã kết hôn khỏi một số ngành nghề hoặc hoạt động nhất định.
Vào cuối thế kỷ 19, hành vi che đậy bắt đầu diễn ra bị thách thức bởi các nhà hoạt động vì nữ quyền và các nhà cải cách, những người cho rằng đó là một thực tiễn bất công và lỗi thời đã kéo dài tình trạng bất bình đẳng giới. Nhiều khu vực pháp lý dần dần bãi bỏ chế độ che đậy trong suốt thế kỷ 20 và ngày nay nó không còn là một phần của hệ thống pháp luật ở hầu hết các quốc gia.



